Ngày nay người ta thường nói nhiều đến chuyện văn hoá cà phê, nhưng bằng cách nào mà liên hệ với văn hoá cà phê khi không mở lại những không gian quán cà phê vợt từng đập cùng nhịp sống với cả thế hệ thị dân. Không ai biết chính xác cái cách pha cà phê bằng vợt có từ thời điểm nào, nhưng hầu hết mọi người đều tin rằng cái vợt pha cà phê du nhập vào xứ ta cùng một ngày với cái thú uống cà phê.
Người Đà Lạt ngày xưa thức giấc sớm, cứ tầm 5 -6 giờ sáng là bếp ở tiệm nước hoặc bếp ở quán hẻm phố lại đỏ lửa nấu nước pha cà phê. Hình ảnh phổ biến nhất của cà phê vợt lại là cái siêu đất, loại siêu nấu thuốc bắc và cái vợt bằng vải dài như chiếc vớ của người đi giày bốt.
Người bán cà phê dùng nước sôi để trụng sạch vợt rồi cho loại cà phê xay nhuyễn vô. Cái vợt chứa cà phê được cầm để trên miệng siêu trước khi chế nước sôi vào; vậy là dòng cà phê đen nâu chảy ra từ cái vợt toả khói thơm nghi ngút. Tất nhiên, tuỳ theo giá tiền của ly cà phê mà lượng cà phê cũng như số lần cà phê được vợt đậm hay vợt lợt.
Nói đến cà phê vợt mà không nhắc đến ngón nghề rót cà phê của các tay pha chế thì có khi thiếu sót. Cái hình ảnh đưa siêu cà phê lên cao rồi để cho dòng cà phê chảy ra từ vòi siêu làm tràn miệng ly cà phê đọng lại trong cái dĩa. Cái ngón nghề rót tràn ly này sao khéo quá, tràn chút xíu, để dư cà phê cho khách chút xíu thôi vậy mà thành một phong cách kề môi miệng vô cái dĩa vừa thổi vừa húp.
Có người giải thích về phong cách húp chút cà phê dư trong dĩa là: cà phê mới rót nóng hổi, hương cà phê tràn trên mặt cái dĩa, kề mũi miệng vô là cách tận hưởng hương cà phê. Có thể cách giải thích đó là suy diễn nhưng dù sao chỉ với món cà phê vợt người ta mới có phong cách húp cà phê trong dĩa.
Trước đây, ở các quán bán cà phê vợt còn có kiểu cà phê bơ; cà phê được chấm thêm chút xíu bơ càng làm cho cà phê vợt ra cái vẻ Tây hơn. Một ông trung niên nói: “Những năm đi Thanh niên xung phong khắp các nông trường, mỗi lần về phép là làm một ly cà phê bơ, làm như cái mùi cà phê bơ nó nhắc mình kiểu gì thì mình cũng là người đô thị, dân Sài Gòn”.
Ở các tiệm nước của người Hoa còn có kiểu uống cà phê vợt chấm giò quẩy hoặc bánh tiêu. Với nhiều người lớn tuổi, dân hưu trí… kiểu cà phê này có thể thay thế phần ăn điểm tâm sáng. Thật là ngon lành biết bao khi cầm nguyên cả cái bánh giò quẩy chấm vào ly cà phê hoặc ngắt từng miếng bánh nhỏ rồi dùng muỗng vớt chung với cà phê lên nhâm nhi.
Ngày trước ở khắp Sài Gòn – Chợ Lớn, và khu vực chợ Hòa Bình, Đà Lạt ai có dịp đi trong buổi tinh mơ ngang qua các tiệm nước hay quán cà phê đều rộng ngực hít lấy khói hương thơm cà phê. Hương cà phê hoà quyện cùng hơi nước toả ra, tạo nên những góc không gian đô thị an vui êm đềm cho mọi thị dân.
Ngày nay người ta thường nói nhiều đến chuyện văn hóa cà phê nhưng bằng cách nào mà liên hệ với văn hoá cà phê khi không mở lại những không gian quán cà phê vợt từng đập cùng nhịp sống với cả một thế hệ. Bước vào cái quán cũ kỹ nhưng tràn ngập hương cà phê này người ta mới hay rằng, chỉ có pha cà phê bằng vợt, chỉ có giữ nóng cà phê bằng cái siêu đất thì hương cà phê vợt tự do hơn hẳn hương cà phê bị nhốt trong cái phin bằng kim loại.
Nhìn những cụ bà, cụ ông và người trung niên người Việt lẫn người Hoa ngồi im lặng thưởng thức từng ngụm cà phê vợt, người ta mới cảm nhận rõ rằng sự thay đổi không gian bán cà phê, thay đổi cách thức pha cà phê không có nghĩa cà phê vợt bị loại khỏi nguồn hương cà phê ký ức của những thị dân cần một ly cà phê để tỉnh thức mỗi đầu ngày.